Dân trí) – Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam với tổng vốn đầu tư sơ bộ hơn 1,7 triệu tỷ đồng dài 1.541km, đi qua 20 tỉnh, thành và dự kiến hoàn thành vào năm 2035.
Nghị quyết về chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam sau hơn 15 năm đặt lên bàn nghị sự, đến chiều 30/11 đã đạt được sự thống nhất cao của đại biểu Quốc hội.
Đầu tư hơn 1,7 triệu tỷ đồng làm đường sắt tốc độ 350km/h từ Bắc vào Nam
Theo nghị quyết vừa được thông qua, Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam (Dự án) với sơ bộ tổng mức đầu tư hơn 1,7 triệu tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước và nguồn vốn hợp pháp khác, thực hiện theo hình thức đầu tư công.
Tiến độ được Quốc hội thống nhất là lập báo cáo nghiên cứu khả thi từ năm 2025 và phấn đấu cơ bản hoàn thành Dự án năm 2035.
Tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam có tổng chiều dài tuyến khoảng 1.541km với điểm đầu tại ga Ngọc Hồi (Hà Nội), điểm cuối tại ga Thủ Thiêm (TPHCM).
Các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam (Ảnh: Hồng Phong).
Dự án đi qua 20 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm: Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, TPHCM.
Với việc đầu tư mới tuyến đường đôi khổ 1.435mm, đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam có tốc độ thiết kế 350km/h, được thiết kế để vận chuyển hành khách, đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh, có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết. Dọc tuyến có 23 ga hành khách và 5 ga hàng hóa.
Theo tính toán, sơ bộ tổng nhu cầu sử dụng đất của Dự án khoảng 10.827ha, gồm: đất trồng lúa khoảng 3.655ha, đất lâm nghiệp khoảng 2.567ha và các loại đất khác khoảng 4.605ha. Số dân tái định cư sơ bộ khoảng 120.836 người.
Quốc hội cũng quyết định nhiều cơ chế, chính sách đặc thù trong triển khai đầu tư đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam.
Đó là trong quá trình thực hiện Dự án, Thủ tướng được quyết định phát hành trái phiếu Chính phủ để bổ sung dự toán và kế hoạch đầu tư hàng năm cho Dự án trong trường hợp dự toán ngân sách Nhà nước bố trí hàng năm không đáp ứng tiến độ.
Thủ tướng cũng được quyết định huy động vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài để thực hiện Dự án mà không phải lập đề xuất dự án sử dụng vốn.
Người đứng đầu Chính phủ được quyết định sử dụng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách Trung ương hàng năm (nếu có) và các nguồn vốn hợp pháp khác cho Dự án trong trường hợp dự toán ngân sách Nhà nước bố trí hàng năm không đáp ứng tiến độ. Việc sử dụng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi không phải thực hiện theo thứ tự ưu tiên theo quy định của pháp luật về ngân sách Nhà nước.
Địa phương được giữ 50% tiền thu từ quỹ khai thác đất vùng phụ cận ga đường sắt
Về phát triển, khai thác quỹ đất và giá trị tăng thêm từ đất vùng phụ cận ga đường sắt tốc độ cao, UBND cấp tỉnh được quyết định các chỉ tiêu quy hoạch, kiến trúc, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; điều chỉnh chức năng sử dụng các khu đất trong vùng phụ cận ga đường sắt để khai thác quỹ đất và giá trị tăng thêm từ đất.
Đối với số tiền thu được từ khai thác quỹ đất vùng phụ cận ga đường sắt tốc độ cao, chính quyền địa phương cấp tỉnh được giữ lại 50% và nộp 50% vào ngân sách Trung ương để cân đối ngân sách Nhà nước đầu tư cho dự án.
Phiên họp Quốc hội ngày 30/11 (Ảnh: Hồng Phong).
Về thẩm quyền quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư, điều chỉnh dự án, trong thời gian Quốc hội không họp, Quốc hội ủy quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án, trừ trường hợp điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư.
Quốc hội giao Chính phủ chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện, quản lý đầu tư Dự án đảm bảo đúng tiến độ, chất lượng; quản lý, sử dụng vốn và các nguồn lực tiết kiệm, hiệu quả, phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Trong quá trình vận hành, khai thác, trên cơ sở đề xuất của các địa phương, Thủ tướng quyết định đầu tư bổ sung một số vị trí nhà ga tại các khu đô thị có nhu cầu vận tải lớn.
Báo cáo giải trình trước đó, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết có ý kiến đề nghị bổ sung phạm vi Dự án kéo dài từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau và phân kỳ thực hiện theo từng giai đoạn.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, Quy hoạch mạng lưới đường sắt thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã xác định phát triển các tuyến đường sắt mới từ Lạng Sơn đến Cần Thơ, gồm 3 đoạn tuyến: Lạng Sơn (Đồng Đăng) – Hà Nội, Hà Nội – TPHCM, TPHCM – Cần Thơ để kết nối các vùng động lực, các đô thị, trung tâm kinh tế lớn và bảo đảm quốc phòng – an ninh trên hành lang kinh tế Bắc – Nam.
Do các đoạn tuyến đường sắt từ Lạng Sơn đến Cần Thơ có nhu cầu vận tải khác nhau nên tiêu chuẩn kỹ thuật, loại hình đường sắt cũng khác nhau và được nghiên cứu đầu tư theo các dự án độc lập, phù hợp với nhu cầu vận tải của từng đoạn tuyến và khả năng huy động nguồn lực.
Trong đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết đoạn Lạng Sơn – Hà Nội có chiều dài 156km là đường sắt tiêu chuẩn, đang nghiên cứu lập quy hoạch chi tiết, dự kiến đầu tư trước năm 2030.
Đoạn Hà Nội – TPHCM có chiều dài 1.541km, là đường sắt tốc độ cao, phấn đấu khởi công năm 2027; và đoạn TPHCM – Cần Thơ có chiều dài 174km, là đường sắt tiêu chuẩn, đang chuẩn bị đầu tư, dự kiến triển khai đầu tư trước năm 2030.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh (Ảnh: Phạm Thắng).
Về hiệu quả kinh tế – xã hội, tài chính của dự án, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng các dự án đường sắt mang lại hiệu quả rất lớn cho nền kinh tế, tuy nhiên doanh thu tính toán hoàn vốn cho dự án chủ yếu từ nguồn thu vận tải, khai thác thương mại để cân đối cho chi phí vận hành, bảo dưỡng phương tiện, bảo trì kết cấu hạ tầng và trả phí hạ tầng cho Nhà nước.
Theo đó, trong 4 năm đầu khai thác, doanh thu chỉ bù đắp được chi phí vận hành, bảo trì phương tiện, do đó Nhà nước cần hỗ trợ một phần từ nguồn vốn sự nghiệp kinh tế bố trí cho hệ thống đường sắt như hiện nay, để bảo trì kết cấu hạ tầng.
Tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam được xây dựng nhằm đáp ứng như cầu vận tải, tạo động lực quan trọng cho phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững, phát huy lợi thế trên hành lang kinh tế Bắc – Nam, bảo đảm kết nối hiệu quả các hành lang Đông – Tây và các nước trong khu vực.